Có một thời người ta đeo nhẫn để chứng tỏ mình là người tự do. Rồi có một thời người ta đeo nhẫn để nói lên mình đã ràng buộc, cam kết. Và rồi cũng có một thời người ta tháo nhẫn vì cam kết không thành.
Thời La Mã cổ đại, những người sinh ra trong giai cấp tự do cần phải đeo nhẫn bằng vàng để mọi người biết rằng mình không thuộc tầng lớp nô lệ. Những người nô lệ được trả tự do cũng cần phải đeo nhẫn, không phải bằng vàng nhưng bằng bạc. Nếu đeo nhẫn là để tự do một thời thì nó cũng là để cam kết một thời. Người cam kết không thành, thì muốn tháo ràng buộc để đổi lấy tự do.
Thế nhưng tự do thì mênh mông quá. Thế nào là hiểu tự do cho trọn nghĩa ?
Tự do để phóng túng đời mình, hay tự do để quyết định đời mình hầu thăng hoa cuộc sống vẫn là nỗi băn khoăn dai dẳng. Có nhiều người đã chọn tự do trong lời cam kết, thì cũng có người chọn tự do trong tháo gỡ, chia ly.
Hành trình để tiến đến ngày trao nhẫn cho nhau là một hành trình gian nan, nhưng hành trình để đến lúc phải tháo nó cũng là những chuỗi ngày đớn đau lắm. Chẳng ai muốn sum họp để ly tan, nhưng tại sao phải ly tan vẫn là một nhức nhối băn khoăn.
Chỉ có điều khi nhìn một cánh diều bay cao lại là cánh diều biết cam kết. Nó chấp nhận ràng buộc với một điểm cố định qua sợi dây gắn bó. Càng gắn bó chặt với trụ điểm, diều lại càng bay cao. Khi diều bay cao, là lúc diều được tự do trong mây ngàn gió lộng, là tung bay trong trời rộng thênh thang.
Nếu có lúc nào diều tham lam, muốn có thêm tự do mà cắt đứt sợi dây cam kết, ấy là lúc diều phải trở lại với mặt đất la đà, phải giã từ trời rộng thênh thang.
Một lần cam kết là một lần ràng buộc, nhưng cũng nhờ ràng buộc mà có hướng để bay lên, để thăng hoa.
Tôi nhìn cánh diều chiều nay nơi sân chơi của lũ trẻ mà lòng bâng khuâng cho một ý nghĩa thâm sâu của cuộc sống. Dù cánh diều to hay cánh diều nhỏ; dù cánh diều đẹp hay xấu; dù nó là của chú bé nhà giàu hay trong tay cậu bé nhà nghèo; tất cả đều phải tuân theo quy luật “cam kết” của kiếp làm diều để có thể bay cao và tự do trong gió.
Có những người tôn trọng lời cam kết nên khắc lời thề hoặc tên người yêu trên chiếc nhẫn cam kết của mình. Người ta như muốn nói, một lần đã camkết là chẳng mong tháo gỡ bao giờ.
Ngày nay ít người khắc tên người yêu trên nhẫn, nhưng người ta lại khắc tên của nhau trong tim. Vì khắc tên của nhau trong tim, nên khi tháo chiếc nhẫn cam kết, thì cũng có nghĩa là muốn xóa nhòa yêu thương, tẩy xóa tên người yêu khỏi tim mình.
Tên càng khắc sâu thì vết thương càng đau khi xóa nhòa. Tim không là vàng, không là gỗ đá, nên khi xóa tẩy là gây nên niềm đau. Có những niềm đau rồi cũng nguôi ngoai, có những vết thương rồi cũng lành lặn, nhưng cũng có những đau đớn xót xa một đời. Có những mong manh của ly tan, thì cũng có những mẫu gương của sắt son chung thuỷ. Những hình ảnh đẹp ấy vẫn sống động quanh ta hôm nay.
Tôi vẫn mãi cảm kích về câu chuyện tình đẹp của vợ chồng một cựu sĩ quan Việt Nam trong trại tù CS sau năm 1975. Khi biết bao người trong tù đã gạt lệ lặng câm khi nghe vợ mình xin phép chồng để quá bước sang ngang, hoặc khi nghe tin vợ mình âm thầm sang sông không lời từ biệt. Thì cặp vợ chồng cựu sĩ quan này đã chọn cho mình một lối cam kết tuyệt diệu. Khi người vợ đến thăm nuôi, họ chỉ có thể gặp nhau trong khoảnh khắc ngắn ngủi qua hàng rào thép gai. Nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, họ đã nghĩ ra cách tái cam kết tuyệt vời bằng cách đổi chiếc nhẫn cưới cho nhau. Người chồng tháo chiếc nhẫn mà vợ trao cho mình hôm nào rồi đeo vào tay vợ mình. Người vợ cũng tháo chiếc nhẫn mà chồng trao cho mình năm xưa rồi đeo vào tay chồng như thêm một lần cam kết sẽ chung thuỷ bên nhau cho dù tù đày có ngăn cách.
Vì chiếc nhẫn của chồng lớn hơn ngón tay của vợ, nên chị đã đeo nhẫn của chồng vào ngón tay cái của mình. Còn chiếc nhẫn của vợ quá nhỏ, nên anh đã đeo nhẫn của vợ vào ngón tay út. Họ đã đeo nhẫn “ngược đời” như thế không những cho đến ngày gia đình đoàn tụ, nhưng còn đeo như vậy cho đến ngày nay, khi màu tóc đã bạc, khi ánh mắt đã nhạt nhoà. Họ vẫn còn sống và sống hạnh phúc nơi xứ Mỹ này, với đôi nhẫn đã hơn một lần trao nhau. Và tôi nghĩ rằng họ sẽ đeo nhẫn kiểu đó cho đến ngày đưa nhau về nơi vĩnh cửu.
Nhẫn không đưa hạnh phúc về. Ngón tay để xỏ nhẫn cũng không nối nhịp thuỷ chung. Chỉ thái độ đón nhận và trao ban trong cam kết mới làm cho yêu thương cất cánh bay lên.
Thế nhưng giá trị của cam kết hôm nay dường như bị coi nhẹ lắm, xem chừng như đang lỗi thời. Nhiều người cảm thấy lo âu cho những tụt dốc ấy, lo âu cho một trào lưu đang ăn mòn lối đi truyền thống, lo âu cho lời cam kết của mình hôm nay có được sắt son mãi như lòng mình ước mong ?
Tu sĩ và giáo dân hôm nay cùng mang một nỗi ưu tư chung. Ưu tư cho cuộc tình năm xưa có được thắm đượm như màu hoa trong ngày dâng hiến trao ban; ưu tư cho lời khấn nguyện có còn cháy sáng như ánh nến lung linh trên bàn thờ thuở nào ? Trong cái lênh đênh và bấp bênh của lời cam kết,người ta băn khoăn không biết bám víu vào đâu để tựa nương.
Thế nhưng, khi lời cam kết của con người mong manh, thì vẫn có Đấng không bao giờ mong manh trong lời cam kết, Thiên Chúa.
Biết băn khoăn cho lòng trung thành là bắt đầu biết tìm đến Đấng luôn trung thành. Chỉ có tình yêu và ân sủng của Đấng không bao giờ bất trung mới làm cho những cuộc tình luôn vĩnh cửu. Có nói lên được một lời thủy chung với người bạn đời hôm nay, có nói lên được lời cam kết trung thành dâng hiến cũng chính là nhờ sự thúc đẩy của Đấng luôn chung thủy.
Lịch sử bất trung của Israel năm xưa vẫn là những lối mòn của chia lìa hôm nay. Thế nhưng Thiên Chúa trung tín của Israel năm xưa thì vẫn là một Thiên Chúa luôn trung tín với cuộc đời mong manh của tôi hôm nay.
Thiên Chúa của hôm qua, của hôm nay và của cả ngày mai vẫn là một Thiên Chúa của trung tín yêu thương. Xin cho những băn khoăn hôm nay biến thành lời nguyện xin cho lòng sắt son chung thủy. Xin cho những mong manh và bấp bênh của lời cam kết trở thành lòng thiết tha gắn bó, để ơn Trời tuôn đổ, để lòng xót thương dâng tràn và lời ca yêu thương vang mãi cho đến lúc đi về với vĩnh cửu.
Lạy Chúa, khi nhìn những tan vỡ chia ly hàng ngày, con không khỏi băn khoăn cho ý nghĩa của lòng trung thành hôm nay. Giữa những vết rạn nứt củabức tường truyền thống, con cũng linh cảm thấy những viên gạch của từng cá nhân, từng gia đình đang lung lay.
Chẳng người thợ xây nào có thể an vui trước rạn nứt của tòa nhà. Chúa là người thợ xây và là nhà thiết kế. Xin nung lại viên gạch yêu thương của đời con.
Xin ban thêm cho con loại “xi-măng” ân sủng, để hạt cát gắn bó được bền chặt giữa mưa ngàn gió cuốn.
Xin cho những chiếc nhẫn đã một lần trao tay, được ở lại mãi với chủ nó, để tự do được thăng hoa.
Nhẫn không là cầu nối, lời thề chẳng dệt nên yêu thương. Chỉ có chính Chúa mới là cầu nối của yêu thương, nối kết đời con trong ân tình chan chứa.
NGUYỄN THẢO NAM, báo donghanh.org