Ngày của Mẹ có nguồn gốc vào thời kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại. Lễ hội tri ân những người làm mẹ được tổ chức thường niên vào mùa xuân và người Hy Lạp thời đó thường cúng tế cho các nữ thần, đặc biệt là vị thần Rhea, Mẹ của nhiều vị thần trong thần thoại Hy Lạp.
Bên cạnh đó, có tài liệu cho rằng nguồn gốc Ngày của Mẹ xuất hiện đầu tiên ở Anh Quốc vào khoảng năm 1600. Ngày này được tổ chức hàng năm, trước lễ Phục Sinh 40 ngày để tri ân người mẹ. Vào Ngày của Mẹ, các em nhỏ lúc ấy thường có phong tục tặng hoa hoặc bánh trái cây cho những người mẹ thân yêu của mình. Tuy nhiên, phong tục này dần rơi vào quên lãng ở thế kỷ thứ 19.
Tại Mỹ, nhờ lòng kiên nhẫn đấu tranh và tấm lòng của một cô gái có tên Anna Jarvis tại bang Philadelphia, Ngày của Mẹ đã đã trở thành một ngày lễ chính thức. Sau khi mẹ mất, Anna luôn day dứt bởi còn nhiều điều chưa làm được cho mẹ, và bởi thái độ thờ ơ của người dân Mỹ đối với chính người mẹ của mình. Cô đã quyết tâm đấu tranh để đề nghị Thượng Nghị Viện Mỹ tổ chức Ngày của Mẹ trên toàn quốc.
Vào năm 1907, Anna đã tổ chức một chiến dịch gửi tặng những bông hoa cẩm chướng trắng cho những người tham gia hội họp ở Nhà Thờ nơi mẹ cô thường sớm dự Thánh Lễ ở Grafton, West Virginia. Vào năm 1908, Nhà Thờ đã đồng ý yêu cầu của Anna về việc tổ chức một Chúa Nhật phục vụ đặc biệt để vinh danh những người mẹ, truyền thống này đã được lan rộng ra nhiều Nhà Thờ của cả 46 bang vào những năm sau đó.
Năm 1909, Anna đã bỏ công việc này và tự ứng cử mình vào một chiến dịch viết thư cầu khẩn những chính trị gia, các mục sư và các thị trưởng lập nên một ngày quốc lễ dành cho mẹ.
Vào năm 1912, những nỗ lực của cô Anna Jarrvis đã đi tới thành công: Quê nhà West Virginia của cô đã công nhận một ngày lễ chính thức dành cho mẹ.
Năm 1914, vị Tổng Thống thứ 28 của nước Mỹ, Woodrow Wilson ký sắc lệnh chính thức công nhận Chúa Nhật thứ hai của tháng Năm là Ngày của Mẹ trên toàn nước Mỹ. Đây được xem là một trong những ngày lễ lớn nhất của Mỹ.
EPHATA tổng hợp tài liệu từ Internet